Theo Vương Hồng Sển, món hủ tíu có nguồn gốc từ món ăn của người Triều Châu, tên gốc là “củi tíu”. Trong đó, “củi” nghĩa là quế, “tíu” là nhỏ. “Củi tíu” hiểu là bánh bột cọng nhỏ, có mùi quế. Đây là một món ăn với thịt heo, tôm tơi, gan heo… Sau này, người dân đọc trại “củi tíu” thành “hủ tíu”.
Tuy nhiên, trong Từ điển tiếng Việt: 41.300 mục từ, GS. Hoàng Phê lại ghi nhận “hủ tiếu”. Nghĩa là một “món ăn làm bằng bột gạo với thịt lợn, tôm băm, chan nước dùng hoặc xào khô”.
Tương tự, Đại từ điển tiếng Việt (1999) cũng giải thích “hủ tiếu: món ăn phổ biến ở Nam Bộ, có gốc từ món ăn của người Hoa, có bánh trắng, sợi nhỏ và giòn hơn bánh phở, thơm mùi tôm khô, vị ngọt”.
Vậy, từ nào mới là cách viết đúng chính tả?
Cả hai cách viết “hủ tíu” và “hủ tiếu” đều được chấp nhận. “Hủ tíu” là cách viết gốc được phiên âm từ tiếng Triều Châu, còn “hủ tiếu” là cách viết được ghi nhận vào từ điển với tư cách toàn dân.
Cách viết “hủ tíu” có lẽ phổ biến hơn ở miền Nam, trong khi cách viết “hủ tiếu” phổ biến hơn ở miền Bắc. Tuy nhiên, ngày nay người ta đã chấp nhận cả hai cách viết này.
Tóm lại, khi nhắc đến món hủ tíu, bạn có thể sử dụng cách viết nào cũng được.